Buổi sáng khánh thành tượng đài “ Nhớ Ơn Chiến Sĩ VNCH “ tại phố Tiểu Sài
Gòn, miền nam California, Hoa Kỳ. Tại đây ,quanh quanh không có mộ chí trùng
điệp như trong nghĩa trang Biên Hoà, cũng không hề thấy xác người hay quan tài
trên nền cỏ uá nhưng không hẹn mà sao mọi người tham dự hôm đó, đã khóc nức nở
xen lẫn tiếng đọc kinh, niệm Phật. Trong cái ánh nắng chói chang và luồng gió
nồm nam hiu hiu trầm mặc, giữa khoảng không gian tĩnh lặng buồn buồn này, bỗng
dưng từ đâu không biết , xuất hiện mấy cánh chim lạ nổi trôi nghiêng nghiêng
trên nền trời xanh thẳm, như muốn tìm một lối về. Nhiều người đã bảo nhau, vong
linh của chiến sĩ ta đó.
Tin hay không tin cũng được nhưng có một sự thật là sau mấy chục năm biển
dâu trầm thống, từ đây hồn linh của những chàng lính VNCH bị VC hèn mọn trả thù,
làm xiêu mồ lạc nấm tại quê nhà,nay đã có một chốn đi về và sự nhắc nhớ trân
trọng, biết ơn của muôn vạn trái tim Việt Nam hải ngoại. Hỡi ôi, tất cả rồi ra
cũng chỉ là một kiếp người VN nhược tiểu, thắng hay thua đều nổi trôi theo dòng
định mệnh của vận nước, trong cái bể khổ ngập đầy máu lệ chúng sinh, khó có ai
thoát được và không ai biết được họa phúc vô thường. Buồn như vậy, nên Tố Như đã
viết :”
“
trải qua một cuộc bể dâu,
những
điều trông thấy mà đau đớn lòng.”
Nói lên cái mông mênh cùng tận của trời đất và sự bé nhỏ tội nghiệp của
kiếp người trước thiên nhiên. Cho nên cũng đừng lạ gì hôm qua còn ngựa xe võng
lọng nghênh ngang, uy quyến tột đỉnh. Thế rồi chỉ qua đêm sau giấc ngủ, đã biến
thành kẻ tội đồ, có khi đầu rơi long lóc giữa chợ.
Các bậc chính nhân quân tử xưa nay, thấu hiểu cái sự đời “ được làm vua,
thua là giặc”, nên đã chọn cho mình một lối sống khác đời, xem nhẹ lợi danh phù
phiếm, dấn thân vào con đường an dân, cưú nước, bởi “ nhân sinh tự cổ thuỳ vô
tử” nên làm trai, làm người phải “ lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”. Ðây cũng là
một quan niệm sống của thanh niên nam nữ VN thời tao loạn, lúc quốc gia nguy
biến nhất là trong giai đoạn hiện tại, ngụy quyền Hà Nội đã quyết tâm đem non
sông và dân tộc Lạc Hồng dâng bán cho Tàu đỏ.
QLVNCH trong giờ thứ 25, khi
Dương văn Minh nắm vận nước dùng quyền Tổng Tư Lệnh Quân Ðội và Tổng Thống, để
bắt VNCH đầu hàng cọng sản quốc tế. Vì Tổ Quốc, Danh Dự , Trách Nhiệm và tuân
theo kỷ luật mà Quân Lực Miền Nam từ Tướng Lãnh xuống tới Nhân dân tự vệ phải
buông súng theo lệnh cấp lãnh đạo, trong máu lệ miên trường. Noi theo chí cả
hùng anh trong dòng sử Việt, một số tướng lãnh và các chiến sĩ anh hùng như các
tướng Phạm văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Trần văn Hai, Nguyễn Khoa
Nam, Lê văn Hưng.. không để sa cơ vào tay giặc, đã quyên
sinh làm rạng danh Người Việt, Nước Việt.
Một số không nhỏ may mắn di tản được ra ngoại quốc. Phần lớn QLVNCH còn
lại, hiểu thấu những quy luật chính trị trong Sử Việt, đã chấp nhận sống tạm để
trả thù. Ba mươi lăm năm qua trong cái thiên đường xã nghĩa đói rách lầm than,
dân bình thường còn không đủ cơm ăn áo mặc, người còn hãm hại người để tranh
sống thì trong cái địa ngục trần gian, nơi mà : “ kêu trời trời không thấu, kêu
đất đất không hay, kêu ông giám thị.. thì ông giám thị ngủ say..”, khiến ta phải
nghiêng mình ngưỡng mộ trước những mảnh gương tiết nghĩa chói rang trong chốn
ngục tù.
Bao năm qua đã không biết
bao nhiêu anh hùng bỏ thây trên đất Bắc, số còn lại rốt cục cũng trở lại được
nam phương và tiếp tục cuộc sống không nhà không nước khắp chân trời góc bể.
Ngoại trừ một số không đáng kể, đếm được trên mười đầu ngón tay, tuy nay vẫn
sống nhưng họ bị tập thể xem như đã chết hẳn tại ngục tù cọng sản, vì hèn nhát,
ham sống sợ chết, bán đứng đồng đội cho giặc Hồ. Còn tuyệt đại anh hùng QLVNCH
xứng đáng để chúng ta vinh danh.
Tác giả Hồ sĩ Khuê trong tác phẩm “ Hồ chí Minh, Ngô Ðình Diệm và MTGPMN
“ viết :” dân miền Nam đã nói đến tướng tự thất thủ.. Họ sống vì nước chết vì
nước như tướng Nguyễn khoa Nam.. Thua thì chấp nhận số phận đầy đoạ như tướng Lê Minh
Ðảo, họ không chạy hạy đi đâu (trang 399, dòng 8-12). Nhưng có lẽ thắm thiết và
có ý nghĩa nhất là bài thơ “ Những cột trụ chống giữ Phương Nam “ đăng trong KBC
14, của nhà văn Quân Ðội nổi tiếng cũng là Ðại Uý Nhảy Dù/QLVNCH Phan Nhật
Nam,một người tù kiệt xuất, đã viết tặng 4 vị Tướng lãnh VNCH bi tù lâu nhất :
Mười bảy Năm “.Ðó là các tướng Ðổ kế Giai , Lê văn Thân, Trần Bá Di và Thiếu
Tướng Lê Minh Ðảo. Trong 4 vị trên, tướng Ðảo là tư lệnh SD18BB cũng là Tư Lệnh
chiến trường Xuân Lộc vào tháng 4/1975, đã cùng với quân dân Miền Nam, tạo một
chiến thắng lừng lẫy trong dòng sử Việt, qua cuộc chiến chống xâm lăng cọng
sản.
+THIẾU TƯỚNG LÊ MINH ÐẢO VÀ
CHIẾN TRƯỜNG XUÂN LỘC THÁNG 4-1975
Sau khi hiệp định Ba Lê được ký kết vào tháng 1-1973, cũng là lúc VNCH
coi như đã bước vào tử lộ vì bộ đội Hà Nội được Mỹ cho phép công khai ở lại Miền
Nam. Ba mươi năm chinh chiến, tất cả gian khổ hiểm nguy đều vượt qua được ,
không ngờ phút cuối lại bị sụp đổ oan nghiệt trong thời gian ngắn ngủi 55
ngày.
Thảm trạng trên chỉ là kết cuộc tất yếu của một quân lực luôn luôn trực
diện với thù trong giặc ngoài. Tại chiến trường, lợi dụng cái vô duyên bất xứng
của đám bốn bên bốn bè và tai ngơ mắt nhắm của Hoa Kỳ nên Hà Nội ngang nhiên tha
hồ chuyển quân, vũ khí qua đường bộ dường biển, để tấn công QLVNCH trên khắp bốn
vùng chiến thuật, dành dân, chiếm đất và khủng bố dân lành. Tại hậu phương an
bình, người dân thờ ơ đứng bên lề cuộc chiến, coi cái sự ngăn chận chống VC là
chuyện của Lính. Tệ hơn là lúc đất nước sắp mất vào tay giặc thù,lại có một ít
trí thức miền nam quen hoang tưởng, sống no cơm ấm cật, bị bọn thân cộng VC nằm
vùng như Sơn Nam, Vũ Hạnh, Kiên Giang Hà
Huy Hà, Phong Ðạm.. trên các báo đảng Tin Ðiển, Tia Sáng, Thần Chung,Ðối Diện..
dựa vào Luật Uỷ Quyền của Quốc Hội, cho phép TT.Nguyễn văn Thiệu được quyết định
cơ mật quốc gia trong thời chiến cũng như sắc lệnh 007/SLU/TT về báo chí, để xuí
giục các ký giả xuống đường vào ngày 10-10-1974 tại Sài Gòn, đòi tự do, quyền
lợi như các nước Aạu Mỹ tiền tuyến và đang sống hoà bình.
Nhưng nhức nhối nhất vẫn là
viện trợ Mỹ, lúc đó đang trở thành chiếc thòng lọng, siết cổ VNCH. Trên trường
quốc té, bọn nhà báo da trắng bất lương, vô liêm sỉ nhất là báo chí truyền thông
Hoa kỳ như Morley Saper, David Halbertan, Water Cronkite.. loan tin bừa bãi, uốn
cong ngòi bút, a dua xu thời, thân cộng, kết bè với cái gọi là thành phần thứ
ba, hầu hết trốn quân dịch hay thuộc thành phần trí thức mạt vận, phá nát hậu
phương miền nam.
Trong suốt chiều dài lịch sử Hồng Lạc, chưa bao giờ người Việt phải đau
xót về cái thân phận nhược tiểu của dân tộc mình. Tại miền bắc, VC chỉ là một
tên đánh thuê cho khối XHCN, trong lúc đó miền nam cũng thảm thê không kém.
Chính nghĩa dân tộc đã bi Hoa Kỳ đánh lạc hướng, để có lý do coi VNCH như một
thuộc địa. Bởi vậy người Mỹ đã độc đoán , tự mình quyết định vận mệnh của nước
khác, theo chính sách chỉ có lợi cho Mỹ mà thôi. Dùng quân viện để hù dọa và
trói tay QLVNCH, cuối cùng thì bán đứng cho VC để đổi lấy thị trường Trung Cộng,
vừa làm giàu vừa có đồng minh tiêu diệt Liên Xô.
Ngày 25/5/1974, Hạ viện Hoa
Kỳ bác bỏ ngân sách quân viện VNCH tài khóa 1975 dự định là 1 tỷ, 400 triệu đô
la. Số tiền này sau đó được biểu quyết có hiệu lực sau ngày 1/7/1974, chỉ còn
700 triệu đô la,trong số này có 300 triệu trả lương cho người Mỹ đang phục vũ
tại VN. Ngoài ra cũng hủy bỏ lời giao kết 1 đổi 1, trong việc thay thế quân
trang dụng cho QLVNCH, trong lúc đó gia xăng dầu lại tăng, nên cuối cùng quân
viện của miền nam từ 1 tỷ 700 triệu đô, kể từ tháng 7-1974 chỉ còn 300
triệu.
Ngày 9-8-1974 Tổng Thống Nixon từ
chức vì vụ Watergate, kéo theo xuống mồ những giao kết với Tổng Thống Thiệu.
Ford lên thế chức nhưng không có uy tín vì không phải là tổng thống dân cử, nên
cũng đành khoanh tay bất lực trước cái quốc hội do bon dân cử đảng dân chủ thân
cộng, tác quái giết chết VNCH. Ngày 18-12-1974, Hà Nội nhận quân viện
của Liên Xô, bắt đầu tổng tấn cống chiếm miền nam theo lệnh quan thầy. Cũng từ
đó, máu bắt đầu chảy khắp chiến trường, mở màn Phước Long thất thủ ngày
2-1-1975, kế tiếp Ban Mê Thuột ngày 10-3-1975, dẫn tới hai cuộc lui quân của QD2
và QD1 trong những ngày đầu tháng 4/1975, kéo theo sự sụp đổ toàn diện của Vùng
1 và 2 chiến thuật, mà tỉnh cuối cùng thất thủ là Phan Thiết vào ngày 19-4-1975.
Nhưng tất cả các lộ quân của VC đã bị chận đứng và đánh tan tành tại mặt trận
Long Khánh và trong thị xã Xuân Lộc, từ ngày 9-4-1975 bởi Sư đoàn 18BB và các
đơn vị tăng phái , do Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo chỉ huy.
Theo tài liệu từ Chiến Sử QLVNCH của Phạm Phong Dinh , Chiến Tranh VN
toàn tập của Nguyễn Ðức Phương , cũng như nhiều sách báo khác, thì Oạng Lê Minh
Ðảo sinh năm 1933 tại Sài Gòn, khóa 10 trường VB/QGDL. Trong cuộc đồi binh
nghiệp, ông đã giữ nhiều chức vụ quan trọng như Huấn luyện viên, Trung tâm
trưởng hành quân QD4, Tỉnh Trưởng Long An, Chương Thiện, Ðịnh Tường. Mùa hè đỏ
lửa năm 1972, cố vấn trưởng QD2 Vann, đã đề nghi Trung Tướng Ngô Du, chấp thuận
cho ông và Ðại Tá Lý tòng Bá giữ chức tư lệnh SD22 và 23 BB nhưng tướng Du chỉ
chấp nhận Ðại Tá Bá làm tư lệnh SD23BB thế chuẩn tướng Võ văn Cảnh tuổi tác hơi
lón. Riêng SD22BB, Tư lệnh phó lúc đó là Ðại Tá Lê Ðức Ðạt, một sĩ quan kỵ binh
trẻ và tài giỏi, nên có thể thay chuẩn tướng Triển tuổi
già.
Cũng vì vậy tháng 3-1972,
Tổng Thống Thiệu đã cử Ðại Tá Ðảo giữ chức Tư lệnh SD18BB, kiêm Tư lệnh khu 31
chiến thuật, thuộc Quân khu 3. Oạng vinh thăng Chuẩn tướng ngày 1-11-1972 và
Thiếu Tướng ngày 23-4-1975, được ân thưởng 48 huy chương đủ loại, trong đó có
các huy chương cao quý như Bảo quốc huân chương đệ ngũ đẳng, đệ tứ đảng và đệ
tam đẳng cùng nhiều huy chương của chính phủ Hoa Kỳ như Silver star, Bronze
star.. Hai cái lon Chuẩn và Thiếu tướng được đổi bằng máu tại An Lộc trời long
đất lở năm 1972 và Xuân Lộc địa ngục A Tỳ vào những ngày cuối tháng tư đen máu
lệ 1975.
Sư đoàn 18 BB được thành lập từ tháng 10/1965 tai Xuân Lộc, với danh xưng
đầu tiên là SD10BB, do tướng Lữ Lan làm tư lệnh với 3 Trung đoàn bộ binh biệt
lập là TrD43, 48 và 52, đều là những đơn vị kỳ cựu thiện chiến của QLVNCH, có
trước ngày chia đôi đất nước 1954. Năm 1966, SD10BB đổi danh hiệu là SD18BB và
trải qua các cấp tư lệnh như tướng Nguyễn văn Mạnh, Ðổ kế Giai, Lâm Quang Thơ
cuối cùng là tướng Lê Minh Ðảo.
Trước đây, sư đoàn sở dĩ bị xếp cuối sổ phong trần, không phải vì các vị
tư lệnh hay quân nhân các cấp không chịu đánh giặc, mà vì hầu như các đơn vị của
sư đoàn luôn bị cắt xén, biệt phái hành quân hết tỉnh này đến vùng khác.. khiến
quân sĩ mỏi mệt chán nản, vì vậy lúc nào cũng mang ấn tượng , mình là đơn vị bị
trừng giới lưu đầy. TrD52 đang biệt phái SD5BB trong An Lộc. Thế nhưng nhờ biết
vận dụng chiến lược và khai thác khả năng chiến đấu của DPQ-NQ diện địa, SD 18BB
trừ, đã bình định xong Long Khánh và Phước Tuy.
Tháng 6-1972, SD18BB vào An Lộc thay thế SD5BB của Tướng Lê văn Hưng, rút
về Bình Dương dưỡng quân. Nhờ vậy Quân Ðoàn 3 đã trả lại các TrD43, 48 và TrD52
cho SD18BB, Trong An Lộc lúc đó , còn có LD5BDQ của Trung Tá Ngô Minh Hồng tăng
phái. SD18BB đã cùng LD5BDQ chiếm lại lãnh thổ đã mất, khai thông QL13 như
trước. Cũng kể từ đó, những người lính thần nỏ vùng đất đỏ Xuân Lộc, như cá gặp
nước, rồng thấy mây, tung hoành khắp khu 31 chiến thuật, từ Bình Long, Dầu
Tiếng, Bời Lời, Hố Bò,Tây Ninh, Ðức Huệ, cho tới Ðất Ðỏ, Mây Tào, Võ Xu, Ðịnh
Quán, gót chân người lính 18BB, vừa súng, vừa thơ, tay đàn, tay kiếm, ngang dọc
một trời, mang lại an bình và niềm vui cho cả vùng chiến
thuật.
“ Ðêm nay Xuân Lộc vầng
trăng khuyết,
như một vành trăng trắng
đất trời
chân theo quân rút hồn
ta ở
nghe nước La Ngà cuồn
cuộn trôi..”
(Nguyễn Phúc Sông
Hương,TrgD48/SD18BB),
Danh hiệu 18 đã được hồi
phục, gắn liền cùng tên tuổi những sĩ quan tài danh trẻ tuổi của QLVNCH từ Trung
đoàn, tiểu đoàn, thiết giáp, pháo binh.. cũng như tên tuổi Chuẩn tướng tư lệnh
Lê Minh Ðảo. Tại mặt trận Xuân Lộc, nhờ tinh thần quyết chiến của quân nhân các
cấp, lại được chuẩn bị chu đáo chờ giặc. Tất cả gia đình binh sĩ kể cả bệnh viện
đều được di chuyển về Biên Hòa, nên không làm vướng bận tinh thần chiến đấu của
binh sĩ. Về chiến lược, trước khi cuộc chiến xảy ra, quân ta đã chiếm lĩnh những
cao điểm do giặc đóng từ trước, đem pháo binh bố trí tại các điểm cao và quan
trong, bí mật tránh phản pháo.
Trong thành phố Xuân Lộc, chỉ có Ðại Ðội 18 Trinh Sát, TD1 và 3/43 phòng
thủ trong các công sự chắc chắn, kiên cố. Còn lại các đơn vị hùng hậu như Thiết
Ðoàn 5 của Trung Tá Nô và Trung Ðoàn 48 của Trung Tá Công thì nằm ở ngoài, nội
ngoại đồng loạt tấn cộng địch khi chúng lọt vòng vây, nên đã giữ được phòng
tuyến trong những ngày đầu, trước khi Lữ Ðoàn Dù tăng phái. Ngoài ra SD3KQ ở
Biên Hoà đã hợp đồng với pháo binh , oanh kích, xạ kích vào các vị trí giặc
chính xác như trên xa bàn, khiến VC không biết đâu mà mò.
Chiến đoàn 52 của Ðại Tá Ngô Kỳ Dũng vì phải trải dài vị trí chiến đấu từ
Túc Trưng về tới Ngã Ba Dầu Giây, lại gặp toàn là đồng bằng và phải đối chọi với
một lực lượng gấp 10 lần, nhưng ta đã giữ vững được vị trí từ ngày 10-15/4/1975,
nhất là tại Ðồi Móng Ngựa. Cuối Cùng Chiến Ðoàn 52, tuy bị hao hụt quân số nhưng
cũng rút được về Biên Hoà. Kết quả sau nhiều ngày tử chiến, từ 8 đến 20-4,
SD18BB,Lữ Ðoàn 1Dù của Ðại Tá Nguyễn văn Ðỉnh,, BDQ,LLDB,Pháo Binh,DPQ-NQ,
SD3,4KQ.. đã giữ vững được Xuân Lộc-Long Khánh, chận đứng cuộc tiến quân của Bắc
Việt từ cao nguyên đổ xuống và miền Trung vào, hơn 8000 bộ đội bỏ xác tại chỗ,
37 chiến xa T54 bị phá huỷ bởi các loại bom CBỤ55 và 4 trái tiểu nguyên tử “
Daisy cutter” nhưng trên hết là dạy cho quân xâm lăng một bài học để đời trong
dòng chiến sử Việt.
Sau ngày 20-4-1975, Long
Khánh không còn là vị trí chiến lược, vì các Lộ quân Bắc Việt không thể đương
đầu nổi với các cánh quân tại đây cũng như bức tường thép của Lực Lưọng 3 Xung
Kích cuả Chuẩn tướng Trần quang Khôi và Trung Ðoàn 8/SD5BB, nên Lê Duẩn đã ra
lịnh tìm đường khác về Sài Gòn. Vì vậy QD3 ra lệnh rút quân về bảo vệ Biên
Hòa.
Trong những ngày cuối cùng
của trận chiến, ta có hai cuộc lui quân thành công, một do TK/Bình Thuận rút
bằng bằng đường biển tại bến tàu Kim Hải sáng 19-4-1975. Cuộc rút quân thứ hai
của SD18BB và các đơn vị tăng phái Xuân Lộc cũng như TK.Long Khánh do Tướng Lê
Minh Ðảo chỉ huy , trên Lien tỉnh lộ 2 , Tân Phong-Bà Rịa vào đêm
20-4-1975. Nhờ có tổ chức, có tư
lệnh chiến trường là tướng Lê Minh Ðảo cùng đi bộ với binh sĩ, nên cánh quân của
Ðại Tá Hứa Yến Lến,TMT/SD18 đả bảo vệ được nguyên vẹn cơ giới, kể cả hai khẩu
đại bác 175 gắn trên xe xích. Cuộc lui quân an toàn ngoài sự thiệt hại nhỏ của
cánh quân Dù và TK/LK bị phục kích. Ðại Tá Tỉnh trưởng Phạm văn Phúc bị bắt cầm
tù tận ngoài bắc suốt 13 năm.
Trong cuộc lui quân, TD2/43 của Thiếu Tá Chế bị Cánh quân Dù bỏ quên trên
Núi Thị, nhưng cuối cùng cũng tự hành quân rút về được Long Thành sau ba ngày
chiến đấu. Tóm lại cuộc chiến thắng tại Xuân Lộc đã cho thế giới biết rõ là quân
dân miền Nam rất muốn chiến đấu để chiến thắng giặc Cộng xâm lăng, nhưng họ đã
nhiều lần phải bỏ lỡ cơ hội chiến thắng, bởi đồng minh Hoa Kỳ và chính đồng bào
mình tìm đủ mọi cách ngăn cản, phá hoại làm hỏng lý tưởng và cuộc chiến thắng
sau cùng.
Theo ký giả chiến trường Nguyễn Tuyến làm vệc tại Ðài phát thanh Sài Gòn,
người đã nhảy vào thị xã Xuân Lộc đang trong cơn bão lửa, theo sát ÐÐ18 trinh
sát, sau đó cùng với cánh quân dù suốt đọan đường lui quân từ Tân Phong về Bà
Rịa, đã trực tiếp phỏng vấn Tướng Ðảo khi Oạng ngồi nghĩ tại cánh rừng cao su,
viết rằng :” Oạng Tướng rất tự tin, không hề giận dữ hay tỏ vẻ sợ hãi khi điều
quân.”. Những ngày cuối tháng 4/1975, Trung Ðoàn 43 vẫn còn nằm tiền đồn tại
Trảng Bom, còn các đơn vị khác của Sư Ðoàn 18 đều đóng quanh quẩn gần Long
Bình.
Chiều 29-4-1975, BTL Sư đoàn
18 mất liên lạc với BTL/QD3 làm xao động các cấp chỉ huy nhưng Thiếu Tướng Ðảo
vẫn còn bình tĩnh phối trí các đơn vị dưới quyến, cho tới lúc đó vẫn chưa có ai
bỏ ngũ. Trung Ðoàn 43 vẫn giữ Trảng Bom, TrD52 giữ Tam Hiệp và Tân Mai, TrD48
cùng BCH giữ Tổng kho Long Bình và các yếu điểm lân cận trong
đêm.
Lúc này Tướng Ðảo có trực
thăng và đầy đủ phương tiện. Quan lớn quan nhỏ kể cả linh tráng cũng có phương
tiện và điều kiện nếu có ý định chạy, vì căn cứ Hải Quân Cát Lái rất gần, đường
bộ đường thủy còn thông. Nhưng tất cả không ai có ý định chạy, kể cả những lúc
mạng sống mỏng manh trong biển máu An Lộc, Xuân Lộc. 8 giờ tối cùng đêm, Tướng
Ðảo nhận điện thoại của Trung Tướng Vĩnh Lộc, lúc đó Q.Tổng TMT/QLVNCH của Tổng
Thống Dương văn Minh, với lệnh đem toàn bộ SD18BB,phòng thủ bên này sông Ðồng
Nai (mé Sài Gòn) và căn dặn phải giữ vững vị trí trong vòng 3 ngày, để chờ phép
lạ đưa chim bồ câu trắng tới ban hòa bình trong biển lửa.
Do lệnh trên, Tướng Ðảo đã
bố trí Pháo Binh SÐ tại Nghĩa Trang Quân Ðội cho tiện yểm trợ Biên Hòa lẫn Long
Bình, đồng thời ngay trong đêm ra lệnh cho Tiểu Ðoàn18 Tiếp Vận cùng các Ðơn Vị
Yểm Trợ di chuyển ngay về Biệt Khu Thủ Ðô, để sẵn sàng xuống Vùng 4 Chiến Thuật
tiếp tục chiến đấu, nếu Sài Gòn thất thủ. Lúc đó trong thâm tâm Oạng cùng các
cấp chỉ huy Sư Ðoàn đều tin tưởng V4CT có các SD7,9,21, Thiết Kỵ, BDQ, Pháo Binh
và nhất là các Liên Ðoàn DPQ, các Liên Ðội NQ thiện chiến dũng cảm, nồng nàn yêu
nước, giống như các cấp tướng lãnh Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Trần văn Hai..
thì QLVNCH có thể cố thủ cầm cự vài tháng chờ quân viện.
Sáng ngày 30-4-1975, SD18BB chuyển quân
nhưng không thể giật sập cầu xa lộ. Gân trưa khi đoàn quân tới Cầu Sơn, thì dài
phát thanh qua giọng Nguyễn hữu Hanh kêu gọi QLVNCH, tuân hành lệnh của Tổng
Thống, Tổng Tư Lệnh buông súng đầu hàng VC. Tin trên khiến cho lính tráng khóc
lóc, nhiều người đập gãy súng hay bắn điên cuồng vào VC, khiến nhiều kẻ thương
vong. Lúc bấy giờ theo Oạng còn 1 Trung Ðội nhưng Tướng Ðảo cho mọi người tan
hàng, riêng ông về nhà của Mẹ thay đồ rồi trốn xuống V4, nhưng tại đây đại cuộc
đã định khi Dương văn Minh đầu hàng giặc. Các Tướng
Nam, Hưng, Hai vì thi hành
kỷ luật quân đội đã tự sát làm rạng danh kỷ cương của một quân đội nhân bản, vì
tổ quốc, danh dự, trách nhiệm. Oạng trở lại Sài Gòn ngày 9-5-1975, ra trình diện và lãnh
án mười bảy năm tù.
+
LÊ MINH ÐẢO, ÐỜI TRAI NGHIỆP LÍNH TRONG CÕI TRĂM NĂM :
Giờ cuối cùng bổng tới như trời sập nhưng vẫn còn một số lớn đơn vị Dù,
TQLC,BDQ,LLDB.. bất tuân lệnh của Dương văn Minh, chận đánh VC khắp các ngả
đường dẫn tới Dinh Ðộc Lập, nơi Tổng Thống và Chính Phủ đang chờ đầu hàng. Theo
Nguyễn khắc Ngữ trong “ những ngày cuối cùng của VNCH “ nơi trang 385, ghi lại
những cái hèn của đám xôi thịt trước bọn cán binh VC vào ngày 2-5-1975 như sau : ” Minh nói là
công dân một nước VN, đất nước được GIẢI PHÓNG, tôi rất vui mừng. Huyền nói tôi
vui mừng khi thấy DÂN TỘC được giải phóng. Riêng tên Nguyễn văn Hảo, kẻ đem 18
tấn vàng của Ngân Hàng QGVN dâng cho Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, nói tôi nghỉ đây là
một ngày LICH SỬ, Hảo hiện đang ở Texas Hoa Kỳ..”
Sài Gòn đã chết lúc 12 giờ 30, dân chúng hờ hững nhìn chủ mới và những
con khỉ người sút chuồng quàng khăn đỏ, tay cầm cờ máu, võ trang súng đạn lượm
được của lính quăng khắp đường, cỡi xe Jeep, la ó múa rối khắp thành phố. Ðồng
lúc có 125 nhà báo Tây Phương cũng chen lấn đi xem Bộ Ðội Giải Phóng Miền
Nam, mà bấy lâu nay họ hết
lòng ca tụng , chỉ vì có thành kiến với QLVNCH, nhờ vậy phe ta mới té ngửa ra
khi xác nhận tất cả đều là BỘ ÐỘi BẮC VIỆT. Trên tờ Los Angles times, ký giả
Norman Pohrets nói Nam VN mất không do bất mãn nội bộ mà là sự xâm lăng của Bắc
Việt. Một nữ ký giả Pháp Brigitte Friang mai mỉa rằng trưa 30-4-1975, xe tăng
cọng sản vào Sài Gòn, thành phố đã chết, chỉ có lũ con nít và 125 nhà
báo.
Giặc cướp gọi ta là ngụy thì có chi là lạ nhưng nỗi đau nhức nhối trong
đời trai kiếp lính của những thanh niên thời đại, là bị Dương văn Minh cùng đám
phản tặc VNCH bán đứng để chúng đổi chút hư danh. Cuối cùng ai cũng trở thành
cánh lục bình trôi giạt muôn phương.. cũng may tuyệt đại dân chúng miền
Nam sau giấc trầm kha máu
lệ, đã nhận diện rõ những bộ mắt khả ái trong chốn tam quân và gọi đích danh Hà
Nội mới chính là những tên lính tiền phong đánh thuê cho Nga,Tàu, Xã Hội Chủ
Nghĩa.
Ba mươi lăm năm qua, người Việt thông thái có biết có không, có đi lính
hay suốt đời mang áo cạo đầu trốn lính, đã thi nhau múa bút viết hồi ký và lịch
sử chiến tranh VN dựa vào núi tài liệu trong các thư viện mà đa số là của ngoại
quốc và VC. Thời chiến VNCH làm gì có nhà văn nhà báo, nhà trí thức viết những
dòng khen lính nhưng cái sự Tướng Nguyễn Ngọc Loan can đảm phi thường, đã bắn
chết tên Bảy Lốp tại ngã ba vườn Lài. Ðây là một tên VC khát máu và ác ôn nhất
trong trận Mậu Thân tại Sài Gòn. Chuyện bắn VC giết hại dân lành trên bị tên ký
giả Eddie Adams chụp hình và phóng ảnh khắp thế giới. Thế là báo ta, báo giặc
hùa với hệ thống truyền thông thân cộng và đám phản chiến Hoa Kỳ làm lớn chuyện
mà vô duyên nhất là hai tên dân biểu đảng dân chủ Mỹ lúc đó là mụ Elizabeth
Holtzman và chàng Harold Sawyer nộp đơn kiện giùm Bảy Lốp và đòi Hoa Kỳ trục
xuất Tướng Loan năm1976 nhưng vô hiệu.
Cũng may trong cái đống sách
báo tả pí lù này, tìm mãi chẳng thấy một trang nào viết về VNCH bán Cam Ranh hay
đất đai cho Mỹ, cũng chẳng có ai nói các tướng lãnh VNCH bị tù ngoài Bắc, đầu
hàng hay làm nhục quân đội vì sợ chết, sợ đói hay hám danh bị dụ dỗ. Những nhà
viết sử chỉ mai mỉa cái đám Từ Hải tân thời ngơ ngơ ngáo ngáo, ông ông con con
trước Nam Long, Công Trang, Bùi Tín và cái đám bộ đội mén thuộc lữ đoàn thiết
giáp 203 Bắc Việt là Bùi văn Tùng, làm mất hết thể thống của con người đã một
thời làm trùm cả nước.
Máu bắt đầu đổ lại ngay từ
đầu tháng 5-1975. Ngoại trừ tướng Nguyễn văn Vỹ bị bệnh nặng, tất cả các tướng
lãnh bị kẹt (trừ Dương Văn Minh) đều bị giữ lại để học tập đợt 1 tại Ðại Học Xá
Minh Mạng, Chợ Lớn. Có 27 tướng ra trình diện và tướng Lý Tòng Bá bị bắt tại Củ
Chi được giam chung tại TTHL Quang Trung. Cũng tại đây còn có đông đảo sĩ quan
các cấp.
Rồi thì các tướng được đưa ra Bắc bằng máy bay, các cấp còn lại đi tàu
thủy, xe lửa nhưng dù đi bằng phương tiện gì, thì cũng gặp nhau tại các tầng địa
ngục trần gian ở thượng du Bắc Việt : Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Hà Tây, Nam
Hà, Thanh Nghệ. Những người quen sống ngoài đời nên chưa biết những gì thật sự
có trong nhà tù, nhất là nhà tù cọng sản. Ðây là một xã hội thu hẹp,chung quanh
là rào gai mìn bẩy, họng súng và cái tâm địa lang sói của bọn cai tù. Ðây cũng
là một trường học để chung quanh lột trần muôn mặt, hoặc tự ta nhưng phần lớn
đều do cọng sản gài đặt. May mắn thay trong cái thế giới ti tiện, bẩn thỉu,
ngoài một số ít không chịu nổi đã chết vì cúi đầu. Tuyệt đại tù nhân VNCH đã ưỡn
ngực bước ra địa ngục, họ không hề bị cải tạo, tẩy não nhưng họ học được trong
chốn lao tù sự chịu đựng để coi thương tủi nhục, cay đắng và tình thường đồng
đội đồng bào.
Ðâu có ai ngu để ở tù trừ khi vạn bất đắc dĩ. Bởi thế tù ngục không bao
giờ là nơi để khoe thành tích rồi vu cáo cho kẻ khác là thua mình, là đầu hàng
giặc trong khi mình chưa chắc có ở tù hay không. Các vị tướng lãnh VNCH trong đó
có tướng Lê Minh Ðảo và gần hết quân công các cấp VNCH đã làm hết nhiệm vụ đời
trai, nghiệp lính. Họ là trí thức, sĩ phu, là anh hùng trong lòng dân tộc đáng
kính trọng và thương quý, cho nên ta cũng đừng đòi hỏi gì hơn, bởi ho đã làm hết
sức mình rồi.
Thật thắm thía biết bao qua lời tâm tình của tướng Lê Minh Ðảo tại Nam
CA, trong lần hội ngộ đầu tiên với các quân nhân cũ của SD18BB sau cuộc bể dâu.
Oạng nói nếu có kiếp sau, chỉ xin được tiếp tục làm người lính
VNCH.-/-
Từ Xóm Cồn Hạ Uy
Di
Tháng Tư Ðen
2010
MƯỜNG
GIANG
No comments:
Post a Comment