Trên con đường thiên lý, ra
khỏi Phan Thiết chừng 20 cây số về hướng bắc sẽ gặp núi Tà Dôn sát lộ và từ đó
nhìn về hường biển, chỉ thấy mênh mông trời xanh cát trắng, tuyệt nhiên không có
một chút gió dù rằng đại dương nằm cách không xa là mấy. Ðối với người Bình Thuận
thì không ai xa lạ gì với cát, vì cát có mặt ở rất nhiều nơi trên quê hường miển
biển mặn từ Cà Ná vào tới Phù My nhưng chính tại vùng này, cái mà khởi đầu từ
năm 1945 trong chín năm toàn dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp, cho tới những
ngày cuối tháng 4-1975 trong cuộc chiến của người miền Nam, ngăn chận làn sóng
đỏ cọng sản quốc tế, do Bắc Việt gây ra, thì không ai xa lạ gì với cái được gọi
là mật khu Lê Hồng Phong.
Ở đây, cát đã làm khổ con người vì cảnh khô hạn tận tuyệt đến nổi các nhà
khoa học đã phải gọi đó là một trạng thái kỳ lạ nhất của vật chất, mang tham
vọng kinh khủng là chinh phục con người, như một khúc biển tấu hoà âm bất tận,
giống như cái hạnh phúc vô thường hay niềm đau không sao nói được của những
người dân bị kẹt lại trong thiên đường này từ 1955-1975. Ðây là một vùng đất
chết, đã được VC tuyên truyền là khu giải phóng, trong đó ngoài cái đói rách
kinh thiên động địa do thiên nhiên và chiến tranh sắp đặt, còn có nổi vùi dập
đọa đày trọn vẹn bởi những chủ trương chính sách triệt để sắt máu của VC trong
việc không để bất cứ ai chạy lọt ra vùng tề.
Trước năm 1975 ngưới dưới
phố ngoại trừ là lính, ít ai dám hay héo lánh tới cõi thiên đàng này, nơi đã
được nhà thơ Nguyễn bắc Sơn, một người lính từng vào khu Lê viết
:
“..tướng giỏi cầm quân
trăm trận thắng
còn ngại hành quân động
Thái An
cát lún bãi mìn rừng
lưới nhện
mùa khô thiếu nước lính
hoang mang..”
(Mật khu Lê hồng
Phong-NBS).
Sau ngày ngưng bắn, người dân ở đây nghèo vẫn đói,vì đất đai cứ tiếp tục
bị cát sa mạc hoá cho nên chỉ trồng được dưa và dừa, trong khi đó thì thiên hạ
bốn phương nưòm nượp kéo về Hòn Hồng, Hòn Rơm để thụ hưởng tiện nghi vật chất
tại những nơi chốn y như cảnh thiên đàng hạ giới, được nhà nước liên danh với
Tây Nhật và Việt cờ yêu nước XHCN bỏ tiền xây dựng kiếm lời. Câu chuyện người
dân có nước mà phải mua nước nghe sao thảm thiết quá chừng, nhât là đối với
những người từng bị bắt theo VC , khiến cho bao nhiêu ngàn người đã phải nằm
xuống, làm cỏ lót đường cho thiên hạ vượt qua núi cát về phố lên cầm quyền trị
nước. Nhưng dưới cái thiên đàng xã nghĩa trong 35 năm qua, với họ thì nên gọi đó
là nổi bất hạnh hay may mắn ? khi những người khu Lê ngày nay tuy được sống
nhưng đâu có được hồi sinh trong thế giới văn minh của loài người đang diễn ra
từng phút giây tại Phan Thiết.
1-VỀ THĂM MẬT KHU LÊ
HỒNG PHONG, SAU NGÀY NGƯNG BẮN :
Theo tài liệu từ Ðại Nam Nhất Thống Chí của Sử quán Triều Nguyễn và Ðịa
bạ tỉnh Bình Thuận được lập ra từ đời vua Minh Mạng, do quan Hộ bộ Ðào tri Phú
làm đạt điền, thì mật khu Lê Hồng Phong của tỉnh Bình Thuận, khai sinh từ đầu
năm 1945 cho tới cuối tháng 4-1975, nằm trọn trong Tổng Vĩnh An, huyện Hòa Ða,
phủ Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận xưa, lúc đó có 35 làng gồm 30 thôn, 5 xã, chiếm
một diện tích 2171 mẫu 652 sào. Nhưng đất thực canh không có là bao, vì phần lớn
đất đai toàn động cát, núi đồi thấp, rừng thưa và nhiều khe lạch , có thể gọi là
hoang phế, ngoại trừ một phần nhỏ đất ở rìa các xã Khánh Thiện, Thiện Nghiệp,
Thiện Khánh trong vùng Vị Nê, nhờ có nước nhĩ nên còn có thể lập vườn trồng đa
số là dừa, trầu cau và vài loại cây ăn trái. Thời VNCH (1955-1975), mật khu nằm
trong hai xã Lương Sơn và Nhơn Thiện thuộc quân Hoà Ða, các xã xôi đậu Long Phú,
Hoà Vinh, Tùy Hòa ( Thiện Giáo) và Thiện Nghiệp (Hải
Long).
Riêng VC thì chia khu Lê
thành 7 xã giải phóng, dù rằng toàn vùng có dân số chưa tới ngàn người, xã không
có làng mạc, thôn ổ và cuộc sống vì hầu hết dân chúng bị lùa theo các đơn vị địa
phương , du kích, tiểu đoàn 480,482 và trung đoàn chính qui 812 Bắc Việt của khu
7 VC. Sau ngày ngưng bắn 1975, mật khu gộp lại thành hai xã : Hồng Phong và Hoà
Thắng thuộc huyện Bắc Bình.
Ðây là một vùng đất coi như khô hạn nhất VN, nằm cao hơn mặt biển từ
150-200m nên không thể đào giếng được, dù có dùng khoang máy với các mũi khoang
có độ dài từ 50-90m vẫn vô hiệu, cộng thêm là độ bốc hơi nước do sức nóng từ các
động cát trùng điệp gây ra, cao hơn lượng nước mưa 1200 mm của khu vực này. Trừ
xã Hoà Thắng sát biển lại may mắn có được nước ngọt từ hai bầu Ông và bầu Bà,
còn lại thì toàn đồi cát và những mảng rừng trống mọc toàn các loại cây lá kim
như ở các sa mạc tại Phi Châu, Mông Cổ, Ả Rập.. có điều các nơi đó trời còn cho
dầu bán đồi lấy gạo và nước, còn ở đây chỉ có cát để trồng dừa, dưa và khoai mì
nhưng rất cằn cổi, giống như con người.
Về thú cầm chỉ độc nhất có dông là sống được trong cát. Vì nước quý như
vậy, nên người dân ở đây có câu chuyện tếu là sính lễ mà đàng gái đòi đàng trai,
đó là nước. Hiện nay qua các kế hoạch kiếm nước như khoan giếng, tới Bầu Trắng
gánh nước về uống coi như thất bai. Từ đầu năm 1999, cơ quan UNICEF của Liên
Hiệp Quốc đã cho dân tại đây vay vốn để đúc lu chứa nước mưa bằng xi măng theo
kiểu Thái Lan, giá 1 cái là 250.000 tiền Hồ, tương đương 15 US, có dung tích
2m3/1 cái và gia đình có 6 người thì được cấp 5 lu. Ở đây mùa mưa bắt đầu từ
tháng 7-11, nước mưa nếu có mưa chỉ dùng được trong hai tháng, còn thời gian
nắng hạn vẫn phải mua nước từ các nơi khác chở tới, với giá 1 đôi 40 lít là 5000
tiền Hồ. Thôi thì có như vậy còn hơn không, và người dân ở đây cũng chỉ mong
được như thế để bớt đi nổi nhọc nhằn phải đi xa trên 20 km gánh về một đôi nước
hay quanh năm phải mua nước từ nơi khác chở tới, trong lúc túi tiền kiếm được
rất khiêm tốn qua các thu hoạch nhỏ nhoi và cằn còm từ dừa, dưa cùng khoai mì mà
thôi.
2-MẬT KHU LÊ HỒNG PHONG,
THÀNH CÂY VÁCH CÁT CỦA VC :
Theo các hồ sơ mật của Liên Xô, Pháp , Trung Cộng vừa được giải mật, thì
Lê hồng Phong tên thật là Lê Huy Doản cùng với các bí danh khác như Hải An,
Chayan và Litvinov, sinh năm 1902 tại Hưng Thông, Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An. Ðầu
tiên Phong dấn thân vào con đường cứu nước trong mặt trận VNQPH do cụ Phan bội
Châu lãnh đạo. Chính lý do này, nên mới đây CS Hà Nội bảo Phong là bạn của Liệt
Sĩ Phạm Hồng Thái, người đã ném bom Sa Ðiện tại Quảng Ðông năm 1924, để ám sát
Toàn Quyền Pháp tại Ðông Dương là Merlin, khi Y đang buôn bán xương máu VN tại
đây. Phong cũng được cụ Phan Bội Châu giới thiệu vào học trường Sĩ quan Hoàng
Phố của THQDD nhưng sau đó phản bội bỏ theo Hồ, gia nhập Tâm Tâm Xã, một tổ chức
của đảng CSQT do Hồ tùng Mậu và Lê Hồng Sơn lập tại Quảng Châu năm 1923, trước
khi Lý Thuỵ ( Hồ Chí Minh) và Lâm Ðức Thụ bán đứng cụ PBC cho mật thám Pháp tại
Thượng Hải để chia nhau tiền thưởng. Do trên Phong được sang Liên Xô học ở viện
thợ thuyền phương đông duới bí danh Litvinov.
Theo các tài liệu của Hứa
Hoành và Chánh Ðạo, thì Hồ đã nhường Nguyễn Thị Minh Khai, một nử đảng viên cọng
sản quốc tế đầu tiên, cùng Hồ học tại đây, để Phong lấy làm vợ. Bà này là chị
ruột của Nguyễn thị Quang Thái vợ lớn của Võ nguyên Giáp, cũng là một đảng viên
cọng sản bị Pháp bắt giam và đã chết thảm trong ngục năm 1942. Năm 1934, Lê hồng
Phong nhận lệnh của Liên Xô, thành lập đảng CS Ðông Dương tại Thượng Hải, sau đó
tại Mạc tư Khoa vào năm 1935 trong kỳ Ðại Hội 7 được bầu làm Uỷ viên dự khuyết
trong ban chấp hành CSQT.
Tháng 1-1940 về VN hoạt
động, bị Pháp bắt tại Phan Thiết và chết ở Côn Ðảo năm 1942 còn vợ là Nguyễn thị
Minh Khai cũng bị Pháp xử bắn tháng 8-1941 ở Hóc Môn, mà theo Hứa Hoành viết là
do chính Hồ chí Minh đã chỉ điểm cho mật thám bắt, mục đích tiêu diệt hết cái
đám cọng sản Nam Kỳ, để đảng bộ miền bắc nắm trọn quyền lảnh
đạo.
Do trên VC Bình Thuận mới đặt tên chiến khu tại địa phương là Lê hồng
Phong. Xưa nay vào khu có nhiều đường. Trên quốc lộ số 1, có thể theo lối từ
Sông Lũy hướng bắc hay men theo sườn núi Tà Dôn, nằm trong ranh giữa hai xã Long
Phú (Thiện Giáo) và Nhơn Thiện ( Hòa Ða), thường được gọi là Cây Táo, ngả ba nhà
ga Long Thạnh và đường nối QL1 với liên tỉnh lộ 8 gặp nhau tại huyện lỵ Ma Lâm (
Thiện Giáo). Ðây cũng là nơi trước năm 1970 từng xãy ra các cuộc đụng độ đãm máu
giữa VC và các lực lượng Mỹ Việt, song song các vụ đặt mìn, đóng thuế xe đó, bộ
hành xuôi ngược trên QL1. Cũng chốn này, nhà văn quân đội nổi tiếng của miền Nam
là Y UYÊN, tên thật là Nguyễn văn Uy, sinh tại Bắc Việt, sĩ quan QLVNCH thuộc
Tiểu Khu Bình Thuận, đã tử trận ngày 8-1-1969 tại đồn Nora ( Long Phú). Lúc sinh
thời, Y Uyên có nhiều tác phẩm giá trị đã xuất bản như Bảo khô (1966), Tượng đá
sườn non (1966), Quê nhà (1967), Ngựa tía (1968) và Ðuốc sậy (1969).. Riêng về
hướng biển, trên tỉnh lộ 28 Phan Thiết-Mũi Né, đến xã tị nạn Thiện Nghiệp, rẽ
theo đường vào Bàu Me, Bàu Tàn, Bàu Sen.. Xa hơn là Thạch Long tới Hòn Rơm, Hòn
Hồng nằm trong xã Hoà Thắng, cửa khẩu giao thường và tiếp vận từ bên ngoài cho
VC trong vùng.
Kể lại chuyện mật khu Lê trong thời chiến tranh 1955-1975, không thể
không nói tới chiến công của Trại Lực lượng đặc biệt Phi Hổ, trong đó nhà thơ
Nguyễn bắc Sơn cũng đã có thời gian theo đơn vị này nhiều lần hành quân tại đây.
Qua tài liệu của Trung Tá LLDB Trịnh văn Viễn hiện nay ở Texas Hoa Kỳ, từng là
chỉ huy trưởng trại Phi Hổ thì trại này nằm trong xã Chợ Lầu cách thị trấn Sông
Mao, một nơi có mỹ danh là Chợ Lớn Mới, vang danh một thời trước năm 1975
:
‘
mai ta đụng trận ta còn sống,
về
ghé Sông Mao phá phách chơi
chia sớt nổi sầu cùng
gái điếm
đốt tiền mua vội một
ngày vui..”
(
Mật khu LHP-NBS).
Trại Phi Hổ nguyên là hậu cứ củ của Trung đoàn 42 bộ binh, đối mặt với
mật khu Lê Hồng Phong VC. Tháng 2-1962, đại uý Trịnh văn Viễn, chỉ huy toán
B3/LLDB đến công tác trong vùng, giữa lúc tình hình an ninh khu vực tồi tệ đến
mức VC dám về các xã đông dân trong vùng hằng đêm để hát xướng, tuyên truyền và
thu thuế, mặc dù tại đây có các đơn vị Bảo An-Dân vệ và Trung tâm huấn luyện Bảo
An tại Sông Mao. Ðể ứng phó với tình hình, trại đã thành lập các đơn vị dân sự
chiến đấu, ăn lương Mỹ, không có số quân do các thanh niên trong vùng, kể cả
Phan Thiết tình nguyện,lên tới 1 tiểu đoàn , hành quân dưới sự hướng dẫn của
toán B/LLDB.
Sau này tiểu đoàn DS chiến
đấu trại Phi Hổ được chính Bộ trưởng QP.Hoa Kỳ là Mc.Namara khi đến thăm Ấp
chiến lược Lương Sơn, đã gọi đó là TD1 Nhảy dù LLDB do Ðại uý Trịnh văn Viễn chỉ
huy tổng quát. Cũng kể từ đó, trại Phi Hổ trở thành tử thần của mật khu Lê,
thường xuyên tổ chức các cuộc hành quân thám sát, nhảy dù ngay chính trong lòng
đất địch, gây bất an và thương vong thường xuyên cho các đơn vị VC trong vùng.
Ngoài ra Trại còn phối hợp với Tỉnh Trưởng Bình Thuận lúc đó là Trung Tá Nguyễn
quốc Hoàng, tổ chức thành lập các Trung đội DSCD tại các xã trong quận Phan Lý
Chàm, Hoà Ða do Hoa Kỳ trả lương để họ tự bảo vệ các ấp chiến
lược.
Ðặc biệt nhất là tại xã
Lương Son, đông dân, trù phú nằm ngay trên QL1, đối mặt vơi khu Lê, trại Phi Hổ
đã tổ chức được một LL/DSCD trong đó có 1 trung đội nử biệt kích LLDB, chính lực
lượng này đã góp công lớn trong việc tiêu diệt nguồn nước uống của mật khu, làm
cho các đại đội địa phương VC phải rút đi nơi khác, chỉ lưu lại một trung đội
hoạt động nghi binh mà thôi. Trước ngày binh biến 1-11-1963, trại Phi Hổ và TK
Bình Thuận đã tổ chức một cuộc hành quân vào mật khu Lê, vưà tiêu diệt VC cũng
đồng thời giải thoát số đồng bào còn bi kềm kẹt trong vùng. Tháng 3-1964, các
toán LLDB hoạt động tại trại Phi Hổ được lệnh chuyển giao nhiệm vụ lại cho tiểu
khu Bình Thuận, và mặt thật như ta biết là vùng này, ngoại trừ xã chiến lược
Lương Sơn với sự hiện diện của TD-DSCD còn có an ninh, tất cả vùng từ Cây Táo
tới Sông Lữy, Chợ Lầu rồi Vĩnh Hảo-Cà Ná trên QL1 trước năm 1970, đều là đất của
CS , mặc dù sau khi LLDB rút, đã có các Trung đoàn 43 BB/Biệt lập hành quân. Sau
đó là các Trung đoàn 44,53 BB và Thiết đoàn 8 kỵ binh của SD23 BB, kể thêm lực
lượng Nhảy dù Hoa kỳ. Tình hình an ninh thật sự có được tại khu Lê và toàn tỉnh
, bắt đầu năm 1970 khi đại tá Ngô tấn Nghĩa, trưởng phòng 2/QD2 về nhậm chức,
cho tới lúc kết thúc chiến tranh vào cuối tháng 4-1975.
3-BẦU TRẮNG, CON DÔNG VÀ
CÁ MÒI TRONG KHU LÊ :
Nói tới mật khu Lê Hồng Phong, những VC về thành sau năm 1975 thường hay
nói tới chuyện cá mòi của Bình Thuận. Ai cũng biết cá mòi cũng như cá nục và tất
cả thủy sản trong vùng biển mặn là một ân điển trân quý của trời đất dành cho
quê hương, giống như gổ súc, khoáng sản trên ngàn, khiến cho Bình Thuận nổi danh
khắp nước trước đây cho tới thời VNCH là chốn rừng tiền biển bạc, nơi làm chơi
ăn thiệt.
Cá mòi trước năm 1954 đạt
sản lượng mỗi năm từ 17.000 ố20.000 tấn. Ðang làm ăn ngon lành, không biết tự
dưng biến mất hết ngoại trừ một số nhỏ còn lẩn quẩn sinh sống trong vùng biển
cấm tại Hòn Rơm. Sau này các nhà khoa học giải thích, sở dĩ có hiện trạng trên
vì cá mòi vốn sợ tiếng động, mà tại biển Bình Thuận từ 1955 về sau, ngành ngư
nghiệp phát triển với các ngư thuyền toàn gắn động cơ, thay thế thuyền buồm xưa,
cho nên cá mòi sợ di cư nơi khác, còn Hòn Hồng, Hòn Rơm thì không có ai léo
hánh, vì vậy một số cá mòi về đây lập nghiệp .
Về con dông, thổ ngởi của khu Lê, nay trong thiên đàng xã nghĩa cũng đã
leo lên một địa vị lớn, chẳng những tại các nhà hàng ăn uống kháp vùng du lịch
Cà Ná, Hòn Rơm, Mũi Né, Rạng, Ðồi Dương và thành phố Phan Thiết mà còn tiến
nhanh tiến mạnh tới tận Nha Trang, Ðà Nẳng, Hà Nội và nhất là thành Hồ, với hổn
danh KHỦNG LONG, được trân quý chẳng những là dân sành điệu địa phương mà còn có
nhiều Tây Tà, Nhật Hàn và Việt Kiều khắp chốn. Khủng Long được bày bán quy mô
trong đại tưu lầu Rồng Xanh trên đường Võ văn Tần gì đó ở Sài Gòn, với nào là
dông nướng mọi, dông lột da chiên dòn,xào lăn.. Ðối với dân thành thị chưa quen,
khi nhìn con dông còn sống ngọ nguậy , quả tình cũng ngán rợn nhưng bảo đãm đã
nếm thử một lần thì tới già vẫn không quên vị ngọt đậm đà và dòn chắc của từng
thớ thịt trắng ngần. Trước năm 1975 người ít và đủ đầy nên dông có hằng hà sa số
tại các quận Bắc Bình Thuận nhưng đông đúc nhất là tại khu Lê, nơi có rừng cây
thấp và sa mạc cát. Mùa nóng, dông ẩn trú kỷ dưới hang sâu chờ thời cho tới khi
đầu mùa mưa vừa thắm đất, đủ làm cho cỏ chết hồi sinh, cũng là lúc nhà họ dông
hoạt động, săn mồi , tỏ tình và trửng giởn. Theo từ điển thế giới động vật , thì
Dông đực đặc biệt có tới hai món ăn chơi và Dông mái thì sinh nở vào khoảng thời
gian mùng năm tháng năm, mỗi lần từ 4-10 trứng , dưới các hang sâu trên 1m. Dông
ăn cây cỏ và các loại côn trùng như dế, cào cào, mối.. Dông đực còn gọi là dông
thiềm thường nặng trên nửa ký, da có nhiều sọc đủ màu, còn con cái có nhiều chấm
màu vàng, nhẹ hơn dông đực. Bắt dông cũng có nhiều cách nhưng thông thường thì
đào hang, bẩy, cắm câu và đặt vòng gút. Thịt dông ăn ngon, hiền và các thợ nhậu
có thể chế biến được nhiều món cũng rất khoái khẩu như bằm chiên chả, xào lăn,
chiên bơ,nấu cà ri, trộn gỏi, nướng chao.. còn lính hay những người địa phương
thì đơn giản hơn với món canh dông lá me non, dông xào đậu rồng, đậu ván, bông
bí,mướp.. ăn cũng rất ngon miệng.Ngoài ra thịt dông nướng ,kẹp rau thơm chấm
nước mắm nhĩ chanh ớt, cũng là thứ đưa cay đáng giá của lính trận hành quân
trong lúc xa thành.
Vào khu Lê đâu quên được BẦU ÔNG-BẦU BÀ,nằm cách QL1 tại Lương Sơn chừng
20 km, bao quanh bởi các động cát trắng cao vút. Theo bản đồ do Pháp ấn hành năm
1924 thì Bầu có tên là BÃI ÐỘNG nhưng dân chúng xưa nay vẫn quen gọi là Bầu
Trắng hay hồ Ba Ðộng vì nằm giữa ba động cát lớn , thuộc thôn Bình Nhơn, tổng
Vĩnh An, huyện Hòa Ða, phủ Hàm Thuận, giáp ranh với xã Hưng Nhơn, thôn Long Sơn
và biển Ðông . Hiện nay sau thời gian dài bị cát xâm thực, diện tích hai bầu đã
bị thu hẹp rất nhiều, chứ không còn giống như đã mô tả trong tài liệu Ðại Nam
Nhất Thống Chí năm xưa ‘ Bầu Ông nhỏ hơn Bầu Bà, có chu vi 8 dặm, còn Bầu Bà
rộng 12 dặm, hai bầu nằm cách nhau một đụn cát’. Trước có miểu thờ Bà Chuá động
ngày nay đã biến mất, chỉ còn lại dấu vết cái nền mà thôi. Nước trong hai bầu
ngọt và quanh năm mực nước không hao hụt, cân bằng hình như có mạch thông thương
từ hai đáy. Ðối với Bầu Trắng, xưa nay vẫn có nhiều bí mật mà con người chưa
giải thích nổi, chẳng hạn xuất xứ của bầu từ đâu mà có, là sông chết, biển cạn
hay hồ tự nhiên ? và cuối cùng vì sao mà có vùng nước xoáy trên bờ biển Bình
Nhơn, nay gọi là Hoà Thắng. Vũng nước này rất sâu, rộng tới 4m, từ trong lòng
đất tuôn ra biển, được dân trong vùng gọi là CỬA LẤP của một con sông, đã bị cát
động vùi dập, mà dấu vết còn lại là hai Bầu nước ngọt. Tại đây nhờ sự hiện diện
của nước,nên có sự sống và cây xanh, dân quanh vùng ngoài nguồn nước, hải sản
trong hồ còn trồng nhiều dưa hấu để ăn và bán hột. Ngoài ra còn có
SEN mọc phủ kín hai mặt hồ,
vì vậy người ta cũng gọi Bầu Trắng là Bầu Sen. Cây sen có tên khoa học là
Nelumbium speciosum willd, có xuất xứ tại Ấn Ðộ, thuộc loại thủy sinh từ lá,
bông, hạt và củ đều ăn được. Sen là một biểu tượng thiêng liêng trong các đại
tôn giáo cuả Châu Á nhất là Phật giáo. Theo William viết năm 1998, thì đói với
nhà Phật, sen được coi là biểu tượng cao quý nhất của sự tinh khiết, hoà bình,
từ bi và vĩnh hằng vì :
“
trong đầm gì đẹp bằng sen
gần bùn mà chẳng hôi
tanh mùi bùn..”
(ca dao
VN)
Cho nên hoa sen được sử dụng nhiều nhất trong các loại hoa, dành cho mọi
lễ hội của người Chấu Á, còn củ sen lại bán chạy trên thị trường. Tại Âu,Phi Mỹ
và Úc châu, người ta dùng Sen để trang trí hơn làm thực phẩm, riêng các nước
Trung cộng, Ðài Loan, Nhật, Ðại Hàn , Ấn Ðộ.. còn xử dụng sen làm y dược, chế
biến các món tiềm thuốc bắc.. Tại VN ngày nay, Ðồng Tháp và Bình Thuận trồng
nhiều sen và mỗi năm bán sang Nhật hơn 3 tấn củ sen muối, với giá cao nhất trên
thị trường tính theo CIF là 343 yen/1 kg.
Tại Bầu Trắng còn một món cũng không thể quên được , đó là món CHÁO TIỀU
HOÀ THẮNG, nôm na là cháo Quãng Ðông của dân địa phương, quen dùng đãi bạn bè
thập phương khi tới thăm khu Lê. Cháo nấu bằng các loại cá nhỏ như cá chỉ, cá
trích hay cá ngân vừa đánh xong còn tươi, lạng hai bên lấy thịt, còn đầu và
xương bỏ, đem ướp gia vị. Nồi cháo được nấu bằng lửa liu riu, không đặc mà cũng
không lỏng quá và lúc nào cũng phải ở độ nóng. Bàn tiệc đơn sơ gồm có cá ướp,
một tô đựng hành lá thái nhỏ, một chén tiêu bột, dĩa rau thơm, chén nước mắm nhĩ
chanh ớt và nồi cháo trắng bốc khói nghi ngút. Cách ăn cũng giản dị, gắp cá tươi
ướp bỏ vào chén, thêm hành, tiêu bột rồi múc cháo nóng đổ vào,nếu cần thì thêm
chút nước mắm, cọng rau thơm, thế là vừa ăn vừa thổi, thỉnh thoảng nốc vào ngụm
rượu nếp nguyên si tại bản địa, để khật khà quên tạm cuộc sống và kiếp người lận
đận lao đao trong thời đại đô la và chứng khoán. Theo lời kể thì món cháo tiều
này có xuất xứ từ các thương buôn người Hoa
Nam, lưu lạc tới đây từ thế
kỷ thứ XVIII trong thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh. Về sau do nhu cầu phát triển
làm ăn, một số lớn đã dời về các đô thị nhưng cũng để lại một số hậu duệ và
chính những người này tiếp tục phát huy cũng như lưu giữ món ăn của tổ tiên để
lại.
4-RẠNG, MŨI NÉ, HÒN RƠM
: CỬA NGỎ VÀO KHU LÊ :
Ðường ra Rạng, Mũi Né, Hòn Rơm vào khu Lê ngày nay đã đổi khác , không
còn là những thôn xóm chài lưới năm nao từ Rạng tới Mũi Né, êm đềm núp mình dưới
rặng dưà xanh ven biển. Tất cả đã lột xác hoàn toàn kể cà con đường cái quan từ
Phú Hài về Vị Nê luôn hành hạ con người vì cát. Bắt đầu từ tháng 3-1998, đường
được mở rộng từ Phan Thiết ra tới tận khu du lịch Hòn Rơm. Trên bờ biển Hoà
Thắng, nước luôn trong xanh in bóng núi màu hồng rất hùng vĩ, đứng sát mé nước,
làm thành nhiều bãi bờ qua những cái tên ngộ nghĩnh như Bãi Ốc sóng biển lăn
tăn, Bãi Xếp cây cồi bạt ngàn, Bãi Ghềnh bạc đầu sóng nước, Bãi Dơi đầy bóng dơi
bay và xa xa Hòn Nghệ nhìn giống như thần Kim quy đang lặn hụp trên Ðông Hải
trùng trùng. Ðường về thôn xưa rất đẹp, nhờ nguồn vốn của tây tà nên phẳng lỳ
láng coáng, mở rộng có kè tại các động cát từ Rạng về Mũi Né, ven biển qua các
di tích và thắng cảnh hửu tình như núi Cố, Bạch Hổ, đồi Bà Nài, Tháp Chàm Phố
Hải, Lầu ông Hoàng, khu lăng mộ Nguyễn Thông, Ðá ông Ðiạ.
.Chen lẫn trong màu xanh của biển, màu vàng trắng của cát là lớp lụa màu
thiên thanh của những vườn cây trái, đồi chuối, rừng dừa.. gần như che mát lối
đi và đặc biệt tạo thành một vương quốc cho các loài chim se sẽ, cu xanh ,sáo
sành. Tại đây còn có loài Sóc xám, thú rừng trên lưng có sọc, ăn chuối, dừa,
trái cây, sống từng cặp trên chọt ngọn dửa cao lắt lẽo, có nhiều tại thôn giữa
xứ Rạng, khó ai bắt được dù bị treo giá cao, gần 1 triệu tiền hồ/1cặp. Còn Mũi
Né trước năm 1975 là huyện lỵ Hải Long, xưa chỉ là một làng đánh cá nhưng phong
cảnh lại rất hữu tình, từ ghềnh đá lên tới những núi cát lúc nào cũng muốn đẩy
hết con người ra biển, để tự mình độc tài, độc đảng. Riêng Hòn Rơm trước năm
1975 thuộc vùng oanh kích tự do, chỉ mới được biết tới từ tháng 10-1995 khi VN
có hiện tượng nhật thực hoàn toàn tại Tà Dôn và Mũi Né. Hòn Rơm trước thuộc Bình
Nhơn, sau là Hoà Thắng, cách xã Thạch Long vài cây số, là cửa khẩu quan trọng để
chuyển hàng tiếp tế từ Bắc Việt vào khu Lê cho cán binh bằng đường biển. Cát và
đất núi ở đây đều màu đỏ làm cho con suối nhỏ cũng có tên là Suối
Hồng.
Hòn Rơm thật ra chỉ là một
ngọn đồi thấp, nằm chơ vơ giữa một đồi cát nhô sâu ra biển, mùa mưa có chút nước
làm cho cây cỏ hồi sinh, trái lại trong mùa nắng gắt, cỏ cây tàn lụn xác xơ,
biến thành màu vàng , xa nhìn giống như đụn rơm khổng lồ, nên mới thành cái tên
Hòn Rơm hay Hòn Hồng. Từ sau năm 1996, Mũi Né rồi Hòn Rơm bước vào kỷ nguyên mới
của ngành du lịch. Cũng kể từ đó dôc theo con đường từ dốc lầu ông Hoàng ra tới
Hòn Rơm mọc đầy các làng và khu du lịch từ giá bình dân tới hạng siêu sao đúng
cở và món đặc sản du lịch trên cát” loại xe 2 bánh hay xe vùng Vịnh” khiến thiên
hạ tứ phương ùn ùn kéo về du lịch. Tất cả tuỳ theo tiền, cao nhất cả trăm đô/1
ngày , còn bình dân thể thao thì ngủ lều ngoài bãi giá chừng 50.000 tiền hồ/1
ngày. Ngoài tiền ăn, ngủ và tắm biển, rong chơi trên cát, còn có tiền ăn nhậu
hải sản quý như ốc, tôm, cua, cá và dông, tuy không giống ai nhưng mắc mõ dể sợ.
Nay Bình Thuận lại mới thêm một món ăn mới “ MỰC MỘT NẮNG “, vì không còn mực
tươi để mà ăn. Trước năm 1975, người Phan Thiết-Bình Thuận ăn mực khác bây giờ.
mực tươi bắt được chỉ cần nhúng sơ chút nước sôi hay bỏ hấp trên nồi cơm nóng lá
ăn ngay, đó là ngoài biển. Còn về nhà hay trên bến, mực chỉ cần làm sạch hắp sơ,
rồi chấm với mắm gừng hay mù tạt.. Theo Nguyễn thị Huệ, chủ vựa cung cấp món
“MỰC MỘT NẮNG” lớn nhất tại Phan thiết hiện nay, thì mực phải tươi và tuỳ loại,
chẳng hạn như MỰC ỐNG chỉ phơi khô, MỰC NANG xuất khẩu để chế biến món Sasimi
của Nhật, còn MỰC LÁ mới chính là nguyên liệu làm mực một nắng, món ăn thời
thượng ngày nay tại Phan Thiết-Bình Thuận. Xuất xứ món ăn này là chủ nhân Quán
Cây Bàng ở Rạng, chuyên bán các đặc sản của Phan Thiết như gõi cá mai, cá suốt,
cháu hàu.. Mực một nắng được chế biến từ mực tươi mới dánh về, làm sạch rửa qua
nước lợ rồi đem sấy ở nhiệt độ 43 độ C chừng 4-5 giờ, rồi bỏ vào tủ đá, hoặc đem
phơi nắng phơi sương một đêm, mục đích làm cho con mực vẫn còn
tươi.
Hởi ơi mực một nắng hay gì
gì chăng nữa đang xãy ra tại quê hương ngày nay cũng chẳng qua là một khúc tận
tuyệt của xứ biển, bởi trong đó có chứa cái mặn mòi của biển, cái sương giá máu
mắt cũa ngư dân và nổi vất vả trùng trùng mà kiếp người dân biển nghèo cực đã
gánh chịu tự bao đời.
Sinh và lớn lên tại Phan Thiết bao nhiêu ngày, rồi phải xa quê hương
không hẹn ngày trở lại, thì làm sao ai chẳng nhớ và càng nhớ hơn lúc nữa đêm
ngồi vơ vẫn nghĩ tới những bạn bè đã nằm xuống tại đây trước năm 1975 hay sau
này khi vượt ngục VC tại Lương Sơn ..
Từ
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng
4-2010
Mường
Giang
No comments:
Post a Comment